Quan niệm của Khổng Tử về người Thầy
Nước ta có bề dày lịch sử chịu ảnh hướng của tư tưởng khổng giáo. Giáo dục nước ta cũng không thoát khỏi vòng ảnh hưởng đó. Từ thời Bắc thuộc (111 TCN – 939), nền giáo dục khổng giáo đã được bắt đầu áp đặt cho người Việt. Những người thầy đầu tiên của nền giáo dục khổng giáo là các quan lại người Hoa như thứ sử Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp và Đỗ Tuệ Độ. Vì thế, quan niệm của Khổng Tử về người thầy và học trò cũng là quan niệm của người Việt vào thời đó, và thậm chí kể cả ngày nay.
Theo Khổng Tử, “thầy phải ra thầy, trò phải ra trò” (trong thuyết chính danh). Thầy có vai trò của thầy, học trò có vai trò của học trò. Nhưng cả hai phải tu thân để có đạo đức. Ngoài việc truyền đạt tri thức cho trò, thầy phải có phẩm chất, ngụ ý tri thức và đạo đức, làm gương cho trò mới dạy được trò. Ngược lại, trò phải tôn kính thầy, trò trước tiên phải học và hành được lễ nghĩa, sau học và hành tri thức; như thế, mới có thể hữu dụng cho bản thân, gia đình, xã hội, dân tộc và đất nước.
1. Không Tử đặt vị thế của người thầy rất cao về tri thức và đạo đức.
Trước khi đạt được vị thế đó, người thầy phải hội đủ phẩm chất vị thế của bốn đối tượng tốt trong xã hội: người tốt, công dân tốt, quan tốt và vua tốt (trong Luận Ngữ). Là người tốt, phải hiểu đạo lý làm người, phải thông lễ nghĩa, phải cư xử với những người xung quanh theo đúng với đạo lý và lễ nghĩa. Là công dân tốt, phải có yếu tố người tốt, phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bổn phận của mình đối với gia đình, địa phương, xã hội và quốc gia. Là vị quan tốt, phải có yếu tố người tốt và công dân tốt, phải có tri thức xã hội và trách nhiệm an dân, bình ổn địa phương. Là vị vua tốt, phải có yếu tố người, công dân và quan tốt, phải là người hiểu rộng tổng thể, phải chăm lo cho dân ăn no mặc đủ; từ đó, mới có thể giáo hóa được người dân, và sau đó bình thiên hạ. Là người thầy tốt, ngoài những phẩm chất của người, công dân, quan và vua tốt, người thầy phải làm gương cho trò noi theo, có khả năng truyền đạt kiến thức, công bằng không thiên vị và thấu hiểu học trò.2. Làm gương cho trò noi theo.
Vì thầy đứng hạng cao nhất về đạo đức và tri thức, thầy phải có hành động, phát ngôn và cách sống tốt để học trò noi theo. Trò xem thầy như kiểu mẫu để sống. Thầy không làm gương được, làm sao trò đặt niềm tin vào thầy mà nghe thầy giảng đạo. Danh không chính, ngôn không thuận, thì nói ai nghe. Không chỉ có thầy làm gương cho trò, mà người trên phải làm gương cho người dưới trong ý thức chung về trật tự xã hội. Điều này được thể hiện rất rõ ràng trong thuyết chính danh. Khổng Tử nói với Tử Lộ: “Danh không hợp thì lời nói sẽ không thuận, nói không thuận thì việc không thành. Việc không thành thì lễ nhạc mất trật tự. Lễ nhạc mất trật tự thì hình phạt không đúng đắn, hình phạt không đúng thì dân không biết làm thế nào cho đúng. Vậy người quân tử khi có danh phù hợp với thực thì có thể nói ra được, nói được thì thực hành thông suốt. Quân tử không bao giờ sơ suất với lời nói của mình.” Và lẽ đương nhiên, “thượng bất chính, hạ tất loạn”. Do đó, muốn làm thầy, phải chính danh thầy cái đã.3. Vai trò truyền đạt kiến thức.
Để thực hiện tốt vai trò này, người thầy trước tiên phải có kiến thức uyên thâm, nghiên cứu sâu rộng tri thức xã hội, luôn trao dồi kiến thức: “Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hĩ” (Ôn tập cái cũ để hiểu cái mới, có thể làm thầy được rồi). Theo cách thức truyền đạt của Khổng Tử có thể khái quát thành năm phương pháp dạy học sau:3.1. Cá nhân hóa từng trò.
Phương pháp này mãi hai ngàn năm sau Jean Piaget mới đề cập. Dạy học phải dựa vào sức và khả năng hiểu biết của từng trò, phải quan tâm những điều trò biết và những điều trò không biết, phải hiểu được mỗi học trò quan tâm đến điều gì. Từ đó, mới có thể đưa ra tri thức thích hợp, làm cho trò dễ hiểu dễ hành.- Tử Lộ hỏi: Nghe rồi thì nên thực hành ngay phải không?
- Khổng Tử nói: Có mặt cha ngươi, làm sao nghe rồi thực hành ngay?
- Nhiễm Hữu hỏi: Nghe rồi thì nên thực hành ngay phải không?
- Khổng Tử lại bảo: Nghe được thì thực hành ngay.
- Công Tây Hoa lại nói: Sao hai câu hỏi giống nhau mà thầy trả lời mỗi người một khác vậy?
- Khổng Tử giải thích: Nhiễm Hữu làm việc gì cũng nhút nhát rụt rè nên ta cổ vũ nó. Còn Tử Lộ dũng khí hơn người, hăng hái dám làm nên ta kìm bớt nó một chút.
3.2. Dạy từ thấp đến cao.
Trước hết dạy điều mà mọi người có thể hiểu được, như luân thường đạo lý ở đời, rồi sau đó tính đến chuyện dạy những điều cao xa.
- Quý Lộ hỏi về quỷ thần.
- Khổng tử nói: Chưa biết việc người, làm sao biết được việc quỷ thần?
- Tử Lộ lại hỏi: Con xin hỏi về đạo lý của sự chết?
- Khổng tử nói: Chưa biết đạo lý sự sống, sao biết được đạo lý của sự chết.
3.3. Đối thoại gợi mở.
Đó là phương pháp Khổng Tử sử dụng xuyên suốt trong cuộc đời dạy học của mình. Khổng Tử không hề viết sách để cho học trò đọc. Ông chỉ giảng những gì trò hỏi, và đặt câu hỏi kiểm tra sự hiểu biết của trò. Đôi khi, ông cũng dùng những câu hỏi gợi mở để trò hiểu vấn đề. Phương pháp này rất tốt trong việc phát huy tính năng động, sáng tạo và khả năng tư duy của trò. Ông nhấn mạnh: “Kẻ nào chưa uất ức vì chưa hiểu được thì ta không gợi mở cho. Kẻ nào không hậm hực vì chưa thể nói ra được thì ta chẳng hướng dẫn cho nó. Kẻ đã được ta chỉ cho một góc vuông mà chẳng biết tự xét ba góc kia thì ta chẳng dạy nó nữa.”
3.4. Hướng dẫn lĩnh hội kiến thức ở mức độ cao.
Khi trò đã đạt trình độ tri thức cao, trò phải tự mình nghiên cứu, thầy không còn trực tiếp truyền đạt kiến thức nữa, thầy chỉ là người hướng dẫn trò tự tìm đến những nguồn tri thức khác nhau. Tử Cống nói: Văn chương của thầy, chúng ta đã được biết. Còn luận bàn của thầy về nhân tính và đạo trời thì chúng ta chưa biết. Rõ ràng, Khổng Tử chỉ dạy những điều căn bản, những tri thức theo đúng lẽ đời, nghĩa là nhiều người công nhận. Còn bàn luận hoặc suy luận sâu rộng hơn về nhân tính và đạo trời hãy để tự trò nghiên cứu và quyết định theo những gì mà trò đã nghiên cứu. Có chăng thầy chỉ nêu quan điểm riêng của thầy, còn đúng sai tùy trò quyết định. Quan điểm này của Khổng Tử còn thể rõ ràng trong đoạn luận ngữ sau: “Sao các trò không học Kinh Thi? Học Thi có thể hưng khởi tâm trí (trí tưởng tượng), có khả năng quan sát, hòa hợp quần tụ với người khác, hiểu đúng về oán hận. Gần thì biết đạo thờ cha mẹ, xa hơn thì biết thờ vua; lại còn biết tên nhiều loài chim thú cỏ cây nữa.”
3.5. Tương tác.
Trò không chỉ học tiếp thu kiến thức một chiều từ thầy, trò có thể có ý kiến và lập luận những ý kiến của chính trò về vấn đề mà trò đang học. Nghĩa là, giữa thầy và trò phải có sự tương tác với nhau, tác động qua lại với nhau, mối quan hệ giữa thầy và trò phải có tính biện chứng. Trò học thầy nhưng đôi khi thầy cũng phải học từ trò. Học sinh có quyền đặt nghi vấn và lập luận phê phán những điều mình chưa hoặc không chấp nhận. Khổng tử nói: “Nhan Hồi không phải người giúp ta mở mang kiến thức. Không lời nào ta nói mà trò ấy không thích.” Ông phê phán cách học của Nhan Hồi, lúc nào cũng phải nghe theo lời ông, không hề có một lập luận nghi vấn nào, không có chính kiến riêng của mình, không dám tranh luận với ông. Điều đó không làm ông mở mang kiến thức. Đối với ông, “Người thẳng thắn không nhường nhịn cả thầy dạy mình.” Có như thế, thầy trò mới có thể gần gủi nhau, chia sẻ tâm tình với nhau và từ đó, thấu hiểu nhau hơn.
Đó là năm phương pháp dạy học đã được viết trong quyển Luận Ngữ, mà các nhà giáo dục thời nay cũng quan tâm và thường xuyên bàn đến. Điều ngạc nhiên, vào thời của Khổng Tử, khoa học vẫn còn ẩn trong bóng tối, nền giáo dục rất sơ khai, nhưng tư tưởng dạy học của Khổng Tử vượt thời gian đến hai ngàn năm, lưu truyền cho hậu thế ngày nay học hỏi và nghiên cứu. Thật xứng với cái danh mà thế giới hiện đại đã đặt cho ông là người thầy muôn đời.
Đó là năm phương pháp dạy học đã được viết trong quyển Luận Ngữ, mà các nhà giáo dục thời nay cũng quan tâm và thường xuyên bàn đến. Điều ngạc nhiên, vào thời của Khổng Tử, khoa học vẫn còn ẩn trong bóng tối, nền giáo dục rất sơ khai, nhưng tư tưởng dạy học của Khổng Tử vượt thời gian đến hai ngàn năm, lưu truyền cho hậu thế ngày nay học hỏi và nghiên cứu. Thật xứng với cái danh mà thế giới hiện đại đã đặt cho ông là người thầy muôn đời.
4. Công bằng không thiên vị.
Khi thầy nhận dạy trò, thầy không phân biệt vị thế của trò, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, thông minh hay ngu dốt. Khổng Tử nói: “Hữu giáo vô loại”. Dạy người, ông không phân biệt thứ hạng, thiện ác, dở hay và giàu nghèo. Ông sẵn sàng dạy nếu người đó biết quay đầu là bờ, có mong mỏi cải thiện bản thân thành người tốt. Luận Ngữ kể rằng, người làng Hỗ khó trò chuyện, một đứa bé làng Hỗ gặp Khổng Tử xin vào học, những học trò khác thấy nghi ngờ. Khổng tử nói: “Ta ủng hộ sự tiến bộ, không thích cái suy thoái, sao lại đối xử thậm tệ? Họ chân thành đến với mình, ta tán thành sự trong sạch vô tư. Không nên nghĩ đến quá khứ của họ.” Phẩm chất công bằng vô tư của người thầy còn thể hiện ở chổ: dạy trò tận tình như dạy con của thầy. Trong Luận Ngữ có đoạn, Trần Cao hỏi Bá Ngư (con Khổng tử): “Nghe thầy dạy có điều gì lạ không?” Bá Ngư trả lời: ‘Chưa thấy. Một hôm cha tôi đứng một mình, tôi nhẹ nhàng đi qua sân. Cha tôi hỏi: “Đã học Kinh Thi chưa?” Tôi đáp: “Con chưa học.” Cha nói: “Không học Kinh Thi biết gì mà nói chuyện.” Sau đó, tôi lui về học Kinh Thi. Lại hôm khác, cha tôi cũng đứng một mình tôi lễ phép đi qua, cha tôi lại hỏi: “đã học Kinh Lễ chưa?” Tôi thưa rằng chưa học. Cha tôi bảo: “Không học Kinh Lễ thì không có cách gì lập thân”. Sau đó, tôi học Kinh Lễ… Đó là hai việc tôi chỉ nghe thấy.’ Trần Cao trở về vui mừng nói: “Mình hỏi một việc mà biết được ba việc, đó là phải học Kinh Thi, Kinh Lễ, lại biết rằng bậc quân tử đối với con cái cũng không thân cận hơn hay dạy dỗ đặc biệt hơn.”
5. Thấu hiểu học trò.
Thầy cần thiết phải hiểu được trò. Thầy không những tìm hiểu kiến thức, khả năng mà còn quan tâm những tâm tư, hoàn cảnh của từng trò. Ngoài việc thầy chọn tri thức phù hợp cho trò, thầy còn dạy luân thường đạo lý ở đời, để cho trò sống theo đúng tâm của trò, đúng với hoàn cảnh thực của trò. Điều này rất hữu ích trong việc áp dụng phương pháp dạy học cá nhân hóa từng em học sinh. Khổng Tử tâm tình với học trò: “Những người cùng theo ta sang nước Trần, nước Thái nay không còn ở bên ta nữa. Về đức hạnh tốt có: Nhan Hồi, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung. Khéo ăn nói giao tiếp có: Tể Ngã, Tử Cống. Giỏi chính trị có: Nhiễm Hữu, Quý Lộ. Tài văn học có: Tử Du, Tử Hạ.” Thầy Khổng Tử chấp nhận và thông cảm sự khác biệt đó như một quy luật của trời đất, luân lý đời thường. Khổng Tử nói: “Cùng học với nhau chưa chắc cùng đắc đạo như nhau. Có thể cùng đạt như nhau nhưng chưa chắc kiên định đạo lý như nhau. Có thể cùng kiên định như nhau, chưa chắc hành xử phù hợp hoàn cảnh như nhau.”
Tác giả: ThS. Lư Thành Long
Nguồn tin: chalkface.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Tin xem nhiều
- MẪU CÂU HỎI THI THEO MỨC ĐỘ NHẬN THỨC
- THIẾT KẾ MỘT GIỜ DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
- Quản lý là gì? Sự thống nhất hoàn hảo giữa lí luận và thực tiễn
- Dạy học theo dự án - Phương pháp giáo dục nghề nghiệp hiệu quả
- Thiết kế nội dung bài dạy theo mẫu giáo án tích hợp trong giáo dục nghề nghiệp
Danh ngôn
Một gánh sách không bằng một người thầy giỏi
Ngạn ngữ Trung Quốc
Văn bản
Tìm kiếm
Khảo sát nhanh
Thành viên
Đăng ký thành viên
Hỏi - Đáp
-
Giáo trình giảng dạy...
04:15 30/10/2024 - Mai Thị Thúy -
Chế độ giờ giảng
22:03 29/11/2021 - Vu Khoi Khoi -
trưởng, phó phòng tài...
20:26 22/02/2021 - vlog Thiên Khôi -
Thắc mắc về hồ sơ lưu...
08:49 03/02/2021 - hai dinh -
Hướng dẫn thành lập...
02:23 02/12/2020 - Lê Trung