BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Đặt vấn đề Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) có vị trí quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp cho sản xuất và dịch vụ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, bảo đảm chất lượng GDNN trong bối cảnh hội nhập quốc tế cần thực hiện nhiều giải pháp từ đổi mới quản trị nhà trường, phát triển chương trình đào tạo theo tiếp cận năng lực, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới tổ chức quá trình đào tạo theo hướng gắn kết cơ sở GDNN với doanh nghiệp, đánh giá kết quả học tập theo tiếp cận năng lực, tăng cường hợp tác quốc tế với các cơ sở đào tạo ở khu vực và các nước phát triển.
1. Những khái niệm liên quan
GDNN là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác cho người lao động, đáp ứng nhu cầu nhân lực trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ.
Mục tiêu của GDNN là nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo; có đạo đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo, thích ứng với môi trường làm việc trong bối cảnh hội nhập quốc tế; bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng lao động.
Chất lượng GDNN là sự đáp ứng mục tiêu do cơ sở đào tạo đề ra, đảm bảo các yêu cầu về mục tiêu giáo dục, phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp cho sản xuất và dịch vụ của địa phương và cả nước.
Chất lượng GDNN được đánh giá qua các yếu tố: đội ngũ nhà giáo, mục tiêu và chương trình đào tạo, cơ sở vật chất, quản trị nhà trường, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, tổ chức quá trình đào tạo, dịch vụ phục vụ người học và phục vụ cộng đồng, đánh giá kết quả học tập. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, người học không chỉ làm việc trong nước mà còn có khả năng làm việc ở nước ngoài.
Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm. Hội nhập quốc tế theo đúng nghĩa đầy đủ là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Hội nhập quốc tế là yêu cầu có tính khách quan, theo đó các quốc gia tham gia các hoạt động của đời sống quốc tế trên hầu hết các lĩnh vực và ở các mức độ khác nhau do tác động của quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng. Trong GDNN, hội nhập quốc tế thể hiện ở quản trị nhà trường, các chuẩn mực đào tạo, chương trình đào tạo, tổ chức quá trình đào tạo, cơ sở vật chất, ...
2. Thực trạng về chất lượng GDNN
Hệ thống GDNN: Luật GDNN ra đời đã hình thành được hệ thống GDNN với 3 cấp trình độ đào tạo là sơ cấp, trung cấp và cao đẳng, nhằm đáp ứng yêu cầu về cơ cấu nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và thị trường lao động trong giai đoạn mới.
Chương trình đào tạo được phát triển dựa trên các tiêu chuẩn kỹ năng nghề theo phương pháp phát triển chương trình DACUM bằng sự phân tích nghề, phân tích công việc theo vị trí việc làm tương ứng với các nhiệm vụ và công việc của ngành, nghề, với sự tham gia của doanh nghiệp. Đến nay đã xây dựng, thẩm định các chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo cho các ngành nghề phổ biến.
Phương thức đào tạo: Tổ chức đào tạo các cấp trình độ theo hình thức niên chế hoặc mô-đun và dần chuyển sang đào tạo theo hình thức tích lũy tín chỉ theo quy định của Luật GDNN. Các cơ sở GDNN đã gắn kết với doanh nghiệp trong phát triển chương trình đào tạo, tổ chức đào tạo kỹ năng nghề tại doanh nghiệp, doanh nghiệp đặt hàng đào tạo và đảm bảo việc làm cho người học khi tốt nghiệp.
Cơ sở vật chất: Đầu tư tập trung đồng bộ cho các ngành, nghề trọng điểm về trang thiết bị đào tạo nhất là thiết bị đào tạo phù hợp với công nghệ mới, với sản xuất của doanh nghiệp.
Đội ngũ nhà giáo: Tính đến năm 2018, cả nước có 1.948 cơ sở GDNN gồm: 397 trường cao đẳng, 519 trường trung cấp, 1.032 trung tâm GDNN), trong đó có 677 cơ sở GDNN tư thục và cơ sở GDNN có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm 34,7%). Theo thống kê của Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp, số lượng nhà giáo là hơn 73.000 người. Về năng lực chuyên môn: Nhà giáo đạt chuẩn về trình độ chuyên môn đào tạo. Về kỹ năng nghề: Khoảng 19% Nhà giáo dạy trình độ cao đẳng, 30% Nhà giáo dạy trung cấp và 73% Nhà giáo dạy sơ cấp đạt chuẩn về kỹ năng nghề, số nhà giáo này giảng dạy được tích hợp. Một bộ phận nhà giáo được bồi dưỡng chuyên môn để giảng dạy chương trình tiên tiến của Ôxtraylia, Cộng hòa Liên bang Đức.
Đánh giá chung: Chất lượng và hiệu quả đào tạo GDNN có bước chuyển biến tích cực, từng bước gắn đào tạo với nhu cầu nguồn nhân lực của thị trường lao động. Đội ngũ nhà giáo từng bước nâng cao về chất lượng và chuẩn hóa. Nhiều chương trình đào tạo tiên tiến của Ôxtraylia, Cộng hòa Liên bang Đức được triển khai đào tạo thí điểm.
Tuy nhiên, một số điều kiện đảm bảo chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN, cụ thể: Chương trình đào tạo chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, kỹ năng thực hành của nhà giáo còn hạn chế chưa đảm bảo thực hiện dạy học tích hợp, nhất là đối với các trường cao đẳng, trung cấp, trung tâm dạy nghề từ Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý trước đây, cơ sở vật chất thiết bị chưa đáp ứng được yêu cầu của chương trình đào tạo và thường lạc hậu so với công nghệ đang áp dụng trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,.... Nhân lực qua đào tạo của GDNN và giáo dục đại học thiếu về kỹ năng mềm, kỹ năng số, kỹ năng sáng tạo, kỹ năng khởi nghiệp. Trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh 4.0 của Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2018, Việt Nam so với 140 nền kinh tế được đánh giá, tại trụ cột 6 về nhân lực, kỹ năng lao động Việt Nam chỉ đứng thứ 128.
3. Những giải pháp bảo đảm chất lượng giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế
3.1. Bối cảnh
3.1.1. Thời cơ
Đảng và Nhà nước quan tâm nhiều hơn đến phát triển giáo dục, phát triển GDNN trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, đã ban hành nhiều văn bản về lĩnh vực GDNN: Luật GDNN (2014), Nghị định số 15/2019/NĐ-CP về Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Giáo dục nghề nghiệp, Quyết định số 1981/QĐ – TTg về Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, Quyết định số 1982/QĐ – TTg về Khung trình độ quốc gia, Nghị quyết số 35/NQ- CP (năm 2019) về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 – 2025, .... Trong đó, Luật GDNN quy định nhiều nội dung mới, trên cơ sở tiếp thu được những bài học của hệ thống GDNN của các nước tiên tiến và kinh nghiệm phong phú từ thực tiễn, là cơ sở để đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN. Đã từng bước khắc phục được tình trạng chồng chéo trong quản lý nhà nước về GDNN. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành nhiều thông tư về tiêu chuẩn, chuyên môn nghiệp vụ, mã ngạch nhà giáo GDNN: Thông tư số 08/2017/TT-LĐTBXH về Quy định chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ nhà giáo GDNN, Thông tư số 03/2018/TT- BLĐTBXH về
Quy định tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành GDNN, Thông tư số 38/2018/TT-BLĐTBXH quy định về chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho nhà giáo dạy trình độ sơ cấp, Thông tư số 28/2018/TT-BLĐTBXH quy định về chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho nhà giáo dạy trình độ trung cấp, dạy trình độ cao đẳng.
Có sự chuyển biến tích cực về nhận thức của các cấp, ngành và toàn xã hội về vai trò và tầm quan trọng của GDNN đối với đội ngũ nhân lực trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Đầu tư của Nhà nước và xã hội cho GDNN không ngừng tăng, các điều kiện đảm bảo chất lượng của các cơ sở GDNN được hình thành và phát triển, năng lực đào tạo của hệ thống GDNN tăng đáng kể.
Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng về GDNN đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội thuận lợi để tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, các chuẩn quốc tế, những mô hình quản lý GDNN hiện đại, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài.
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trong thời kỳ toàn cầu hóa đã và đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Khoa học và công nghệ đã trực tiếp tác động nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ cường độ lao động, giảm chi phí và giá thành sản xuất, giảm rõ rệt tỷ lệ tiêu hao vật chất, tăng tỷ lệ chất xám trong cấu tạo sản phẩm.
3.1.2. Thách thức
Mô hình phát triển kinh tế đang có nhiều thay đổi, chuyển từ tăng trường kinh tế theo chiều rộng sang chiều sâu, hình thành và phát triển trị trường dịch vụ sự nghiệp công, việc hội nhập sâu rộng thông qua việc ký kết các hiệp định thương mại kéo theo thay đổi về cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực.
Sự thay đổi về công nghệ trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ diễn ra nhanh chóng, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tác động rất mạng mẽ tới cấu trúc việc làm và làm cho dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội rất khó lường. Chính những đặc điểm trên đòi hỏi hệ thống GDNN phải được thiết kế hết sức linh hoạt, mở và liên thông không những đáp ứng được yêu cầu hiện tại mà còn chuẩn bị nguồn nhân lực phù hợp với cách mạng công nghiệp 4.0 trong khi khả năng chuyển đổi, thích ứng của toàn hệ thống và các cơ sở GDNN còn hạn chế. Nhà giáo giảng dạy trong các cơ sở GDNN phải hội được nhiều năng lực vừa đủ rộng vừa phải đảm bảo chuyên sâu mới có thể thực hiện được nhiệm vụ.
Từ tháng 12/2015, Cộng đồng ASEAN hình thành, nhiều lĩnh vực khác, trong đó có GDNN, giáo dục đại học ở Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội thuận lợi hơn để phát triển nhưng đồng thời cũng phải đương đầu với nhiều khó khăn thách thức do quá trình hội nhập với các nước trong khu vực mang lại. Thỏa thuận công nhận lẫn
nhau (Mutual Recognition Arrangements - MRAs) là những công cụ chính để di chuyển lao động trong khuôn khổ AEC. Những thỏa thuận này giúp những người hành nghề có kỹ năng hoặc kinh nghiệm phù hợp để được chứng nhận và làm việc tại nước ngoài. Đến nay, đã có thỏa thuận trong 8 lĩnh vực nghề: dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ điều dưỡng, dịch vụ kiến trúc, dịch vụ khảo, hành nghề y khoa, hành nghề nha khoa và dịch vụ kế toán, hành nghề du lịch. Trong những năm tới việc di cư lao động có kỹ năng vừa và thấp có khả năng vẫn tiếp tục gia tăng về số lượng ngành nghề và số lượng người lao động.
Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo GDNN còn thấp so với mục tiêu đề ra (nhất là trình độ cao đẳng và trung cấp). Đó là thách thức lớn đối với hệ thống GDNN, một mặt phải tăng nhanh quy mô đào tạo trong thời gian ngắn nhưng vẫn phải ưu tiên đến bảo đảm chất lượng đào tạo.
3.2. Các giải pháp bảo đảm chất lượng GDNN
Để bảo đảm nâng cao chất lượng GDNN cần thực hiện đồng bộ các giải pháp từ đội ngũ nhà giáo, phát triển chương trình đào tạo, tổ chức hoạt động đào tạo đến đánh giá kết quả học tập theo tiếp cận năng lực. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến một số giải pháp và phân tích nội dung của những giải pháp đó.
3.2.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo Chất lượng đội ngũ nhà giáo là một trong những nhân tố quan trọng tác động tới chất lượng đào tạo GDNN. Để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo GDNN cần thực hiện cả hai nhiệm vụ: Đào tạo và bồi dưỡng.
Về bồi dưỡng nhà giáo GDNN, Nhà giáo GDNN cần được bồi dưỡng thường xuyên về: (1) Trình độ chuyên môn; (2) kỹ năng thực hành nghề; (3) đạt chuẩn giảng dạy 50 chương trình được nước ngoài chuyển giao; (4) bồi dưỡng đạt chuẩn về tin học, ngoại ngữ; (5) bồi dưỡng các nội dung về dạy học tích hợp; (6) bồi dưỡng về phát triển chương trình đào tạo theo tiếp cận năng lực; (7) bồi dưỡng về đánh giá kết quả học tập theo tiếp cận năng lực.
Về đào tạo nhà giáo GDNN cần thực hiện các nội dung sau:
1) Đổi mới chương trình đào tạo nhà giáo GDNN ở các trường đại học sư phạm kỹ thuật theo hướng phát triển năng lực nghề, trong đó xác định chuẩn đầu ra về năng lực mà sinh viên sư phạm kỹ thuật cần đạt được. Những năng lực mà sinh viên cần đạt được khi tốt nghiệp gồm những năng lực chung, năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm. Từ chuẩn năng lực mà xác định các kiến thức lý thuyết và kiến thức thực tế, kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực hành nghề nghiệp và kỹ năng giao tiếp, ứng xử, năng lực tự chủ cần có để thực hiện được năng lực đã xác định trong chuẩn đầu ra. SV sư phạm kỹ thuật cần đạt chuẩn đầu ra về kỹ năng nghề quốc gia bậc 2. Có như vậy, họ mới có thể giảng dạy chương trình tích hợp (mô đun) ở cơ sở GDNN.
2) Phương thức đào tạo: Các trường đại học sư phạm kỹ thuật đang đào tạo cả hai phương thức: đào tạo nối tiếp và đào tạo song song. Đối với đào tạo nối tiếp, thì khối kiến thức về chuyên ngành được thực hiện trước và tiếp sau đó là khối kiến thức về nghiệp vụ sư phạm; còn ở đào tạo song song cả hai khối kiến thức này được thực hiện đồng thời, đan xen nhau trong suốt quá trình đào tạo. Cho đến nay chưa thấy có nghiên cứu nào chỉ ra được sự khác biệt đáng kể ở kết quả đào tạo giữa hai phương thức này. Các trường đại học sư phạm kỹ thuật có thể lựa chọn một trong hai phương thức nói trên. Tuy nhiên, dù lựa chọn phương thức nào thì đào tạo nhà giáo phải đảm bảo tính toàn diện từ đạo đức nhà giáo, năng lực chuyên môn ngành và năng lực sư phạm để nhà giáo đảm nhiệm dạy chữ, dạy nghề, dạy làm người.
3) Để gắn kết giữa lý thuyết với thực hành sư phạm, các trường đại học sư phạm kỹ thuật có thể (1) liên kết với trường cao đẳng trong việc tổ chức thực tế, thực tập sư phạm; (2) hoặc thành lập trường cao đẳng thực hành. Đây chính là môi trường thuận lợi để sinh viên hệ sư phạm kỹ thuật rèn luyện năng lực sư phạm nghề nghiệp.
3.2.2. Phát triển chương trình đào tạo theo tiếp cận năng lực
Để chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực (NL) và phẩm chất người học, cần phát triển chương trình đào tạo theo tiếp cận NL từ xây dựng chuẩn đầu ra đối với tất cả các chương trình đào tạo dựa trên Khung trình độ quốc gia Việt Nam. Khi xây dựng chương trình đào tạo, cần tham chiếu tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia. Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia đề cập những chuẩn mực NL mà người lao động cần có để có thể hoàn thành chức năng của nghề trong bối cảnh môi trường làm việc. Chuẩn NL trong kỹ năng nghề quốc gia gồm: (1) Năng lực cơ bản: gồm những năng lực áp dụng để làm việc nói chung không dành riêng cho một nghề hoặc một ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ (sau đây gọi chung là ngành công nghiệp); (2) Năng lực chung: gồm những năng lực bắt buộc phải có khi làm việc trong một ngành công nghiệp cụ thể; (3) Năng lực chuyên môn: gồm những năng lực cần thiết của nghề mà một cá nhân cần có để được thừa nhận là có năng lực tại một cấp độ cụ thể.
Các chương trình đào tạo có mục tiêu, nội dung được thiết kế đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và thị trường lao động. Doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây dựng chương trình đào tạo từ xác định chuẩn đầu ra đến đánh giá kết quả học tập của người học.
Chương trình đào tạo cần đảm bảo tính thực tiễn, linh hoạt đáp ứng sự thay đổi của thị trường lao động nhất là đối chương trình đào tạo chịu nhiều tác động
của cách mạng công nghiệp 4.0 như: Công nghệ thông tin, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, ....
Để có thể đào tạo nhân lực các ngành/nghề sẽ xuất hiện trong tương lai, Nhà nước cần có dự báo những lĩnh vực lao động mới, bổ sung vào danh mục các ngành/nghề để các cơ sở GDNN chủ động xây dựng chương trình đào tạo, tuyển sinh và tổ chức đào tạo.
3.2.3. Đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất
Nhà nước, cơ sở GDNN tập trung đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị cho các ngành, nghề theo chuẩn và có trọng tâm, trọng điểm.
Các cơ sở GDNN cần nghiên cứu và chế tạo thiết bị tự làm phục vụ dạy và học. Thông qua việc thiết kế, chế tạo thiết bị tự làm mà năng lực chuyên môn và nghiên cứu khoa học của nhà giáo được nâng lên.
3.2.4. Gắn kết cơ sở GDNN và doanh nghiệp
Gắn kết cơ sở GDNN và doanh nghiệp là giải pháp quan trọng trong việc đào tạo đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động. Để thực hiện giải pháp này cần thực hiện những nội dung sau:
Một là, các cơ sở GDNN mời doanh nghiệp tham gia vào xây dựng chương trình đào tạo; doanh nghiệp đảm bảo cho người học được thực hành kỹ năng tại cơ sở sản xuất, dịch vụ; doanh nghiệp tham gia đánh giá kết quả học tập của người học.
Hai là, các cơ sở GDNN chủ động thành lập doanh nghiệp, để tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phù hợp với các ngành (nghề) mà nhà trường đang đào tạo.
Ba là, doanh nghiệp thành lập cơ sở GDNN (Trường trong doanh nghiệp), trung tâm đào tạo, bồi dưỡng để cập nhật kiến thức, kỹ năng thực tiễn cho người lao động và hướng dẫn học sinh sinh viên của các cơ sở GDNN thực tập kỹ năng.
Bốn là, doanh nghiệp đặt hàng cơ sở GDNN đào tạo theo yêu cầu doanh nghiệp và đảm bảo việc làm của người học khi tốt nghiệp. Đồng thời tham gia bồi dưỡng chuyên môn, chuyển giao công nghệ cho người lao động của doanh nghiệp.
Năm là, doanh nghiệp tham gia xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề, các chuẩn có liên quan đến GDNN.
Sáu là, thực hiện các mô hình đào tạo tiên tiến của các nước như mô hình đào tạo kép của Cộng hòa Liên bang Đức.
3.2.5. Đẩy mạnh tự chủ trong các cơ sở GDNN
Các cơ sở GDNN được tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính theo lộ trình tùy thuộc vào năng lực quản lý. Quy định trách nhiệm giải trình của cơ sở GDNN trước cơ quan quản lý, xã hội và pháp luật.
Nhà nước cần thực hiện cơ chế đặt hàng đào tạo các ngành (nghề) trọng điểm, các ngành (nghề) khó tuyển sinh theo phương thức đấu thầu. Các cơ sở GDNN là công lập hay ngoài công lập căn cứ vào năng lực của mình để tham gia đặt hàng, đấu thầu.
Kết luận và kiến nghị
Bảo đảm chất lượng GDNN trong bối cảnh hội nhập quốc tế là một trong những nội dung chiến lược phát triển GDNN trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài. Mục tiêu của bảo đảm chất lượng là bảo đảm người học có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực tự chủ để khi tốt nghiệp sẵn sàng tham gia và đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động.
Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành thông tư bổ sung mã ngành đào tạo nhà giáo GDNN. Hiện tại theo Thông tư số 24/2017/TT-BGDĐT về ban hành Danh mục giáo dục, đào tạo cấp IV trình độ đại học chưa có mã ngành đào tạo nhà giáo trình độ đại học cho hệ thống GDNN. Chúng tôi kiến nghị mã ngành đào tạo nhà giáo GDNN trình độ đại học là 7149001: Sư phạm GDNN
Đề xuất này phù hợp với Quyết định số 01/2017/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Danh mục giáo dục, đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về “Ðổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập Quốc tế”.
2. Chính phủ (2016), Khung trình độ quốc gia, Ban hành kèm theo Quyết định số 1982/QĐ-TTg ngày 18/10/2016.
3. Chính phủ (2019), Nghị quyếtsố 35/NQ-CP về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 – 2025.
4. Tạp chí Tuyên giáo, Hướng dẫn chi tiết chuyên đề “Hội nhập quốc tế”,14/10/2017.
5. Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (2017), Đề án Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2017 - 2020 và định hướng đến năm 2025.
6. Nguyễn Thế Mạnh và BCN (2018),Chương trình và tài liệu bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm cho nhà giáo dạy trình độ trung cấp, cao đẳng, Quyết định số 617/QĐ-TCGDNN ngày 06/08/2018.
7. Nguyễn Thế Mạnh và BCN (2018), Đổi mới hoạt động đào tạo nhà giáo giáo dục nghề nghiệp Việt Nam – Đề tài cấp Bộ, mã số CB2018 - 10.
8. Lê Quân (2019), Kỳ vọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nước https://www.nhandan.com.vn/xahoi/goc-nhin/item/41118202-ky-vong-nang-cao- chat-luong-nguon-nhan-luc-trong-nuoc.html.
9. Quốc hội (2014), Luật Giáo dục nghề nghiệp.
GDNN là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác cho người lao động, đáp ứng nhu cầu nhân lực trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ.
Mục tiêu của GDNN là nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo; có đạo đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo, thích ứng với môi trường làm việc trong bối cảnh hội nhập quốc tế; bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng lao động.
Chất lượng GDNN là sự đáp ứng mục tiêu do cơ sở đào tạo đề ra, đảm bảo các yêu cầu về mục tiêu giáo dục, phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp cho sản xuất và dịch vụ của địa phương và cả nước.
Chất lượng GDNN được đánh giá qua các yếu tố: đội ngũ nhà giáo, mục tiêu và chương trình đào tạo, cơ sở vật chất, quản trị nhà trường, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, tổ chức quá trình đào tạo, dịch vụ phục vụ người học và phục vụ cộng đồng, đánh giá kết quả học tập. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, người học không chỉ làm việc trong nước mà còn có khả năng làm việc ở nước ngoài.
Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm. Hội nhập quốc tế theo đúng nghĩa đầy đủ là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Hội nhập quốc tế là yêu cầu có tính khách quan, theo đó các quốc gia tham gia các hoạt động của đời sống quốc tế trên hầu hết các lĩnh vực và ở các mức độ khác nhau do tác động của quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng. Trong GDNN, hội nhập quốc tế thể hiện ở quản trị nhà trường, các chuẩn mực đào tạo, chương trình đào tạo, tổ chức quá trình đào tạo, cơ sở vật chất, ...
2. Thực trạng về chất lượng GDNN
Hệ thống GDNN: Luật GDNN ra đời đã hình thành được hệ thống GDNN với 3 cấp trình độ đào tạo là sơ cấp, trung cấp và cao đẳng, nhằm đáp ứng yêu cầu về cơ cấu nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và thị trường lao động trong giai đoạn mới.
Chương trình đào tạo được phát triển dựa trên các tiêu chuẩn kỹ năng nghề theo phương pháp phát triển chương trình DACUM bằng sự phân tích nghề, phân tích công việc theo vị trí việc làm tương ứng với các nhiệm vụ và công việc của ngành, nghề, với sự tham gia của doanh nghiệp. Đến nay đã xây dựng, thẩm định các chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo cho các ngành nghề phổ biến.
Phương thức đào tạo: Tổ chức đào tạo các cấp trình độ theo hình thức niên chế hoặc mô-đun và dần chuyển sang đào tạo theo hình thức tích lũy tín chỉ theo quy định của Luật GDNN. Các cơ sở GDNN đã gắn kết với doanh nghiệp trong phát triển chương trình đào tạo, tổ chức đào tạo kỹ năng nghề tại doanh nghiệp, doanh nghiệp đặt hàng đào tạo và đảm bảo việc làm cho người học khi tốt nghiệp.
Cơ sở vật chất: Đầu tư tập trung đồng bộ cho các ngành, nghề trọng điểm về trang thiết bị đào tạo nhất là thiết bị đào tạo phù hợp với công nghệ mới, với sản xuất của doanh nghiệp.
Đội ngũ nhà giáo: Tính đến năm 2018, cả nước có 1.948 cơ sở GDNN gồm: 397 trường cao đẳng, 519 trường trung cấp, 1.032 trung tâm GDNN), trong đó có 677 cơ sở GDNN tư thục và cơ sở GDNN có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm 34,7%). Theo thống kê của Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp, số lượng nhà giáo là hơn 73.000 người. Về năng lực chuyên môn: Nhà giáo đạt chuẩn về trình độ chuyên môn đào tạo. Về kỹ năng nghề: Khoảng 19% Nhà giáo dạy trình độ cao đẳng, 30% Nhà giáo dạy trung cấp và 73% Nhà giáo dạy sơ cấp đạt chuẩn về kỹ năng nghề, số nhà giáo này giảng dạy được tích hợp. Một bộ phận nhà giáo được bồi dưỡng chuyên môn để giảng dạy chương trình tiên tiến của Ôxtraylia, Cộng hòa Liên bang Đức.
Đánh giá chung: Chất lượng và hiệu quả đào tạo GDNN có bước chuyển biến tích cực, từng bước gắn đào tạo với nhu cầu nguồn nhân lực của thị trường lao động. Đội ngũ nhà giáo từng bước nâng cao về chất lượng và chuẩn hóa. Nhiều chương trình đào tạo tiên tiến của Ôxtraylia, Cộng hòa Liên bang Đức được triển khai đào tạo thí điểm.
Tuy nhiên, một số điều kiện đảm bảo chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN, cụ thể: Chương trình đào tạo chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, kỹ năng thực hành của nhà giáo còn hạn chế chưa đảm bảo thực hiện dạy học tích hợp, nhất là đối với các trường cao đẳng, trung cấp, trung tâm dạy nghề từ Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý trước đây, cơ sở vật chất thiết bị chưa đáp ứng được yêu cầu của chương trình đào tạo và thường lạc hậu so với công nghệ đang áp dụng trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,.... Nhân lực qua đào tạo của GDNN và giáo dục đại học thiếu về kỹ năng mềm, kỹ năng số, kỹ năng sáng tạo, kỹ năng khởi nghiệp. Trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh 4.0 của Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2018, Việt Nam so với 140 nền kinh tế được đánh giá, tại trụ cột 6 về nhân lực, kỹ năng lao động Việt Nam chỉ đứng thứ 128.
3. Những giải pháp bảo đảm chất lượng giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế
3.1. Bối cảnh
3.1.1. Thời cơ
Đảng và Nhà nước quan tâm nhiều hơn đến phát triển giáo dục, phát triển GDNN trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, đã ban hành nhiều văn bản về lĩnh vực GDNN: Luật GDNN (2014), Nghị định số 15/2019/NĐ-CP về Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Giáo dục nghề nghiệp, Quyết định số 1981/QĐ – TTg về Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, Quyết định số 1982/QĐ – TTg về Khung trình độ quốc gia, Nghị quyết số 35/NQ- CP (năm 2019) về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 – 2025, .... Trong đó, Luật GDNN quy định nhiều nội dung mới, trên cơ sở tiếp thu được những bài học của hệ thống GDNN của các nước tiên tiến và kinh nghiệm phong phú từ thực tiễn, là cơ sở để đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN. Đã từng bước khắc phục được tình trạng chồng chéo trong quản lý nhà nước về GDNN. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành nhiều thông tư về tiêu chuẩn, chuyên môn nghiệp vụ, mã ngạch nhà giáo GDNN: Thông tư số 08/2017/TT-LĐTBXH về Quy định chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ nhà giáo GDNN, Thông tư số 03/2018/TT- BLĐTBXH về
Quy định tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành GDNN, Thông tư số 38/2018/TT-BLĐTBXH quy định về chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho nhà giáo dạy trình độ sơ cấp, Thông tư số 28/2018/TT-BLĐTBXH quy định về chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho nhà giáo dạy trình độ trung cấp, dạy trình độ cao đẳng.
Có sự chuyển biến tích cực về nhận thức của các cấp, ngành và toàn xã hội về vai trò và tầm quan trọng của GDNN đối với đội ngũ nhân lực trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Đầu tư của Nhà nước và xã hội cho GDNN không ngừng tăng, các điều kiện đảm bảo chất lượng của các cơ sở GDNN được hình thành và phát triển, năng lực đào tạo của hệ thống GDNN tăng đáng kể.
Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng về GDNN đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội thuận lợi để tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, các chuẩn quốc tế, những mô hình quản lý GDNN hiện đại, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài.
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trong thời kỳ toàn cầu hóa đã và đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Khoa học và công nghệ đã trực tiếp tác động nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ cường độ lao động, giảm chi phí và giá thành sản xuất, giảm rõ rệt tỷ lệ tiêu hao vật chất, tăng tỷ lệ chất xám trong cấu tạo sản phẩm.
3.1.2. Thách thức
Mô hình phát triển kinh tế đang có nhiều thay đổi, chuyển từ tăng trường kinh tế theo chiều rộng sang chiều sâu, hình thành và phát triển trị trường dịch vụ sự nghiệp công, việc hội nhập sâu rộng thông qua việc ký kết các hiệp định thương mại kéo theo thay đổi về cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực.
Sự thay đổi về công nghệ trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ diễn ra nhanh chóng, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tác động rất mạng mẽ tới cấu trúc việc làm và làm cho dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội rất khó lường. Chính những đặc điểm trên đòi hỏi hệ thống GDNN phải được thiết kế hết sức linh hoạt, mở và liên thông không những đáp ứng được yêu cầu hiện tại mà còn chuẩn bị nguồn nhân lực phù hợp với cách mạng công nghiệp 4.0 trong khi khả năng chuyển đổi, thích ứng của toàn hệ thống và các cơ sở GDNN còn hạn chế. Nhà giáo giảng dạy trong các cơ sở GDNN phải hội được nhiều năng lực vừa đủ rộng vừa phải đảm bảo chuyên sâu mới có thể thực hiện được nhiệm vụ.
Từ tháng 12/2015, Cộng đồng ASEAN hình thành, nhiều lĩnh vực khác, trong đó có GDNN, giáo dục đại học ở Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội thuận lợi hơn để phát triển nhưng đồng thời cũng phải đương đầu với nhiều khó khăn thách thức do quá trình hội nhập với các nước trong khu vực mang lại. Thỏa thuận công nhận lẫn
nhau (Mutual Recognition Arrangements - MRAs) là những công cụ chính để di chuyển lao động trong khuôn khổ AEC. Những thỏa thuận này giúp những người hành nghề có kỹ năng hoặc kinh nghiệm phù hợp để được chứng nhận và làm việc tại nước ngoài. Đến nay, đã có thỏa thuận trong 8 lĩnh vực nghề: dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ điều dưỡng, dịch vụ kiến trúc, dịch vụ khảo, hành nghề y khoa, hành nghề nha khoa và dịch vụ kế toán, hành nghề du lịch. Trong những năm tới việc di cư lao động có kỹ năng vừa và thấp có khả năng vẫn tiếp tục gia tăng về số lượng ngành nghề và số lượng người lao động.
Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo GDNN còn thấp so với mục tiêu đề ra (nhất là trình độ cao đẳng và trung cấp). Đó là thách thức lớn đối với hệ thống GDNN, một mặt phải tăng nhanh quy mô đào tạo trong thời gian ngắn nhưng vẫn phải ưu tiên đến bảo đảm chất lượng đào tạo.
3.2. Các giải pháp bảo đảm chất lượng GDNN
Để bảo đảm nâng cao chất lượng GDNN cần thực hiện đồng bộ các giải pháp từ đội ngũ nhà giáo, phát triển chương trình đào tạo, tổ chức hoạt động đào tạo đến đánh giá kết quả học tập theo tiếp cận năng lực. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến một số giải pháp và phân tích nội dung của những giải pháp đó.
3.2.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo Chất lượng đội ngũ nhà giáo là một trong những nhân tố quan trọng tác động tới chất lượng đào tạo GDNN. Để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo GDNN cần thực hiện cả hai nhiệm vụ: Đào tạo và bồi dưỡng.
Về bồi dưỡng nhà giáo GDNN, Nhà giáo GDNN cần được bồi dưỡng thường xuyên về: (1) Trình độ chuyên môn; (2) kỹ năng thực hành nghề; (3) đạt chuẩn giảng dạy 50 chương trình được nước ngoài chuyển giao; (4) bồi dưỡng đạt chuẩn về tin học, ngoại ngữ; (5) bồi dưỡng các nội dung về dạy học tích hợp; (6) bồi dưỡng về phát triển chương trình đào tạo theo tiếp cận năng lực; (7) bồi dưỡng về đánh giá kết quả học tập theo tiếp cận năng lực.
Về đào tạo nhà giáo GDNN cần thực hiện các nội dung sau:
1) Đổi mới chương trình đào tạo nhà giáo GDNN ở các trường đại học sư phạm kỹ thuật theo hướng phát triển năng lực nghề, trong đó xác định chuẩn đầu ra về năng lực mà sinh viên sư phạm kỹ thuật cần đạt được. Những năng lực mà sinh viên cần đạt được khi tốt nghiệp gồm những năng lực chung, năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm. Từ chuẩn năng lực mà xác định các kiến thức lý thuyết và kiến thức thực tế, kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực hành nghề nghiệp và kỹ năng giao tiếp, ứng xử, năng lực tự chủ cần có để thực hiện được năng lực đã xác định trong chuẩn đầu ra. SV sư phạm kỹ thuật cần đạt chuẩn đầu ra về kỹ năng nghề quốc gia bậc 2. Có như vậy, họ mới có thể giảng dạy chương trình tích hợp (mô đun) ở cơ sở GDNN.
2) Phương thức đào tạo: Các trường đại học sư phạm kỹ thuật đang đào tạo cả hai phương thức: đào tạo nối tiếp và đào tạo song song. Đối với đào tạo nối tiếp, thì khối kiến thức về chuyên ngành được thực hiện trước và tiếp sau đó là khối kiến thức về nghiệp vụ sư phạm; còn ở đào tạo song song cả hai khối kiến thức này được thực hiện đồng thời, đan xen nhau trong suốt quá trình đào tạo. Cho đến nay chưa thấy có nghiên cứu nào chỉ ra được sự khác biệt đáng kể ở kết quả đào tạo giữa hai phương thức này. Các trường đại học sư phạm kỹ thuật có thể lựa chọn một trong hai phương thức nói trên. Tuy nhiên, dù lựa chọn phương thức nào thì đào tạo nhà giáo phải đảm bảo tính toàn diện từ đạo đức nhà giáo, năng lực chuyên môn ngành và năng lực sư phạm để nhà giáo đảm nhiệm dạy chữ, dạy nghề, dạy làm người.
3) Để gắn kết giữa lý thuyết với thực hành sư phạm, các trường đại học sư phạm kỹ thuật có thể (1) liên kết với trường cao đẳng trong việc tổ chức thực tế, thực tập sư phạm; (2) hoặc thành lập trường cao đẳng thực hành. Đây chính là môi trường thuận lợi để sinh viên hệ sư phạm kỹ thuật rèn luyện năng lực sư phạm nghề nghiệp.
3.2.2. Phát triển chương trình đào tạo theo tiếp cận năng lực
Để chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực (NL) và phẩm chất người học, cần phát triển chương trình đào tạo theo tiếp cận NL từ xây dựng chuẩn đầu ra đối với tất cả các chương trình đào tạo dựa trên Khung trình độ quốc gia Việt Nam. Khi xây dựng chương trình đào tạo, cần tham chiếu tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia. Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia đề cập những chuẩn mực NL mà người lao động cần có để có thể hoàn thành chức năng của nghề trong bối cảnh môi trường làm việc. Chuẩn NL trong kỹ năng nghề quốc gia gồm: (1) Năng lực cơ bản: gồm những năng lực áp dụng để làm việc nói chung không dành riêng cho một nghề hoặc một ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ (sau đây gọi chung là ngành công nghiệp); (2) Năng lực chung: gồm những năng lực bắt buộc phải có khi làm việc trong một ngành công nghiệp cụ thể; (3) Năng lực chuyên môn: gồm những năng lực cần thiết của nghề mà một cá nhân cần có để được thừa nhận là có năng lực tại một cấp độ cụ thể.
Các chương trình đào tạo có mục tiêu, nội dung được thiết kế đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và thị trường lao động. Doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây dựng chương trình đào tạo từ xác định chuẩn đầu ra đến đánh giá kết quả học tập của người học.
Chương trình đào tạo cần đảm bảo tính thực tiễn, linh hoạt đáp ứng sự thay đổi của thị trường lao động nhất là đối chương trình đào tạo chịu nhiều tác động
của cách mạng công nghiệp 4.0 như: Công nghệ thông tin, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, ....
Để có thể đào tạo nhân lực các ngành/nghề sẽ xuất hiện trong tương lai, Nhà nước cần có dự báo những lĩnh vực lao động mới, bổ sung vào danh mục các ngành/nghề để các cơ sở GDNN chủ động xây dựng chương trình đào tạo, tuyển sinh và tổ chức đào tạo.
3.2.3. Đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất
Nhà nước, cơ sở GDNN tập trung đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị cho các ngành, nghề theo chuẩn và có trọng tâm, trọng điểm.
Các cơ sở GDNN cần nghiên cứu và chế tạo thiết bị tự làm phục vụ dạy và học. Thông qua việc thiết kế, chế tạo thiết bị tự làm mà năng lực chuyên môn và nghiên cứu khoa học của nhà giáo được nâng lên.
3.2.4. Gắn kết cơ sở GDNN và doanh nghiệp
Gắn kết cơ sở GDNN và doanh nghiệp là giải pháp quan trọng trong việc đào tạo đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động. Để thực hiện giải pháp này cần thực hiện những nội dung sau:
Một là, các cơ sở GDNN mời doanh nghiệp tham gia vào xây dựng chương trình đào tạo; doanh nghiệp đảm bảo cho người học được thực hành kỹ năng tại cơ sở sản xuất, dịch vụ; doanh nghiệp tham gia đánh giá kết quả học tập của người học.
Hai là, các cơ sở GDNN chủ động thành lập doanh nghiệp, để tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phù hợp với các ngành (nghề) mà nhà trường đang đào tạo.
Ba là, doanh nghiệp thành lập cơ sở GDNN (Trường trong doanh nghiệp), trung tâm đào tạo, bồi dưỡng để cập nhật kiến thức, kỹ năng thực tiễn cho người lao động và hướng dẫn học sinh sinh viên của các cơ sở GDNN thực tập kỹ năng.
Bốn là, doanh nghiệp đặt hàng cơ sở GDNN đào tạo theo yêu cầu doanh nghiệp và đảm bảo việc làm của người học khi tốt nghiệp. Đồng thời tham gia bồi dưỡng chuyên môn, chuyển giao công nghệ cho người lao động của doanh nghiệp.
Năm là, doanh nghiệp tham gia xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề, các chuẩn có liên quan đến GDNN.
Sáu là, thực hiện các mô hình đào tạo tiên tiến của các nước như mô hình đào tạo kép của Cộng hòa Liên bang Đức.
3.2.5. Đẩy mạnh tự chủ trong các cơ sở GDNN
Các cơ sở GDNN được tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính theo lộ trình tùy thuộc vào năng lực quản lý. Quy định trách nhiệm giải trình của cơ sở GDNN trước cơ quan quản lý, xã hội và pháp luật.
Nhà nước cần thực hiện cơ chế đặt hàng đào tạo các ngành (nghề) trọng điểm, các ngành (nghề) khó tuyển sinh theo phương thức đấu thầu. Các cơ sở GDNN là công lập hay ngoài công lập căn cứ vào năng lực của mình để tham gia đặt hàng, đấu thầu.
Kết luận và kiến nghị
Bảo đảm chất lượng GDNN trong bối cảnh hội nhập quốc tế là một trong những nội dung chiến lược phát triển GDNN trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài. Mục tiêu của bảo đảm chất lượng là bảo đảm người học có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực tự chủ để khi tốt nghiệp sẵn sàng tham gia và đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động.
Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành thông tư bổ sung mã ngành đào tạo nhà giáo GDNN. Hiện tại theo Thông tư số 24/2017/TT-BGDĐT về ban hành Danh mục giáo dục, đào tạo cấp IV trình độ đại học chưa có mã ngành đào tạo nhà giáo trình độ đại học cho hệ thống GDNN. Chúng tôi kiến nghị mã ngành đào tạo nhà giáo GDNN trình độ đại học là 7149001: Sư phạm GDNN
Đề xuất này phù hợp với Quyết định số 01/2017/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Danh mục giáo dục, đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về “Ðổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập Quốc tế”.
2. Chính phủ (2016), Khung trình độ quốc gia, Ban hành kèm theo Quyết định số 1982/QĐ-TTg ngày 18/10/2016.
3. Chính phủ (2019), Nghị quyếtsố 35/NQ-CP về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 – 2025.
4. Tạp chí Tuyên giáo, Hướng dẫn chi tiết chuyên đề “Hội nhập quốc tế”,14/10/2017.
5. Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (2017), Đề án Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2017 - 2020 và định hướng đến năm 2025.
6. Nguyễn Thế Mạnh và BCN (2018),Chương trình và tài liệu bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm cho nhà giáo dạy trình độ trung cấp, cao đẳng, Quyết định số 617/QĐ-TCGDNN ngày 06/08/2018.
7. Nguyễn Thế Mạnh và BCN (2018), Đổi mới hoạt động đào tạo nhà giáo giáo dục nghề nghiệp Việt Nam – Đề tài cấp Bộ, mã số CB2018 - 10.
8. Lê Quân (2019), Kỳ vọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nước https://www.nhandan.com.vn/xahoi/goc-nhin/item/41118202-ky-vong-nang-cao- chat-luong-nguon-nhan-luc-trong-nuoc.html.
9. Quốc hội (2014), Luật Giáo dục nghề nghiệp.
Tác giả: Trần Văn Khiêm, Nguyễn Thế Mạnh - Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định
Tags: giáo dục nghề nghiệp, gdnn
Tin xem nhiều
- MẪU CÂU HỎI THI THEO MỨC ĐỘ NHẬN THỨC
- THIẾT KẾ MỘT GIỜ DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
- Quản lý là gì? Sự thống nhất hoàn hảo giữa lí luận và thực tiễn
- Dạy học theo dự án - Phương pháp giáo dục nghề nghiệp hiệu quả
- Thiết kế nội dung bài dạy theo mẫu giáo án tích hợp trong giáo dục nghề nghiệp
Danh ngôn
Không thể trồng cây ở những nơi thiếu ánh sáng, cũng không thể nuôi dạy trẻ với chút ít nhiệt tình
Can Jung
Văn bản
Tìm kiếm
Khảo sát nhanh
Thành viên
Đăng ký thành viên
Hỏi - Đáp
-
Giáo trình giảng dạy...
04:15 30/10/2024 - Mai Thị Thúy -
Chế độ giờ giảng
22:03 29/11/2021 - Vu Khoi Khoi -
trưởng, phó phòng tài...
20:26 22/02/2021 - vlog Thiên Khôi -
Thắc mắc về hồ sơ lưu...
08:49 03/02/2021 - hai dinh -
Hướng dẫn thành lập...
02:23 02/12/2020 - Lê Trung