Hoàn thiện chính sách xã hội hóa giáo dục nghề nghiệp

Thứ tư - 30/10/2019 04:28
Xã hội hóa giáo dục là chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta, được xã hội đồng tình ủng hộ. Sau hơn 20 năm thực hiện, công tác xã hội hóa giáo dục đã thu được những kết quả quan trọng, tuy nhiên vân tồn tại nhiều bất cập, chưa khai thác cao nhất nguồn lực xã hội đầu tư phát triển giáo dục. Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên là do chưa hoàn thiện cơ chế chính sách thu hút nguồn lực xã hội đầu tư phát triển giáo dục. Bài viết dưới đây sẽ phân tích thực trạng về chính sách xã hội hóa giáo dục và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách về xã hội hóa giáo dục nghề nghiệp.
Hoàn thiện chính sách xã hội hóa giáo dục nghề nghiệp
Hoàn thiện chính sách xã hội hóa giáo dục nghề nghiệp
  1. Thực trạng chính sách xã hội hóa giáo dục
Cụm từ “Xã hội hóa giáo dục” được đưa vào từ Nghị quyết số 90-CP ngày 21/8/1997 của Chính phủ “Về phương hướng và chủ trương xã hội hóa cac hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa” và cho đến nay, cụm từ này được đưa vào khá nhiều văn kiện của Đảng và nhà nước ta nhằm nâng cao trách nhiệm của Đảng và Nhà nước cũng như của toàn xã hội đối với giáo dục, qua đó huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển giáo dục (trong đó có đào tạo). Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác xã hội hóa giáo dục, Nghị quyết số 29- NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” một lần nữa tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp (GDNN) và giáo dục đại học...”; Kết luận số 51- KL/TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư Trung Đảng khóa XII tiếp tục khẳng định “Đẩy mạnh xã hội hóa, xây dựng cơ chế thuận lợi, minh bạch để khuyến khích các doanh nghiệp, xã hội và thu hút nguồn lực quốc tế đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là phát triển giáo dục và đào tạo chất lượng cao”. Nhằm thực hiện tốt chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục của Đảng, ngày 14/6/2019, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Luật Giáo dục số 43/2019/QH14, trong đó có Điều 16. Xã hội hóa giáo dục và Điều 54. Nhà đầu tư. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan chức năng từ trung ương tới địa phương hoàn thiện cơ chế, chính sách huy động sự tham gia đóng góp của xã hội đối với công tác GDNN.
“Điều 16. Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục
  1. Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân.
  2. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục. Thực hiện đa dạng hóa các loại hình cơ sở giáo dục và hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục; khuyến khích phát triển cơ sở giáo dục dân lập, tư thục đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao.
  3. Tổ chức, gia đình và cá nhân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với cơ sở giáo dục thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh.
  4.  Tổ chức, cá nhân có thành tích trong sự nghiệp giáo dục được khen thưởng theo quy định của pháp luật”.
“Điều 54. Nhà đầu tư
  1. Nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục bao gồm:
  1.  Nhà đầu tư trong nước là cá nhân có quốc tịch Việt Nam, tổ chức được thành lập theo pháp luật Việt Nam;
  2.  Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài.
  1. Quyền và trách nhiệm của nhà đầu tư được quy định như sau:
  1. Thông qua kế hoạch phát triển nhà trường theo quy định của pháp luật do hội đồng trường đề xuất;
  2. Quyết định tổng vốn góp của nhà đầu tư, dự án đầu tư phát triển trường, việc huy động vốn đầu tư (nếu có); phương án sử dụng phần chênh lệch thu, chi hằng năm hoặc phương án xử lý lỗ của nhà trường; thông qua báo cáo tài chính hằng năm;
  3. Bầu hoặc cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên của hội đồng trường;
  4. Tổ chức giám sát và đánh giá hoạt động của hội đồng trường;
đ) Quyết định ban hành, sửa đổi, bổ sung quy chế tài chính; thông qua nội dung liên quan đến tài chính, tài sản trong quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường;
  1.  Góp vốn đầy đủ, đúng hạn, giám sát việc góp vốn vào nhà trường theo đề án thành lập;
  1. Xem xét, xử lý vi phạm gây thiệt hại của hội đồng trường theo quy định của pháp luật, quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường;
  2. Quyết định tổ chức lại, giải thể nhà trường theo quy định của pháp luật;
  3. Công khai danh sách tổ chức và cá nhân góp vốn đầu tư trên trang thông tin điện tử của nhà trường;
k) Nhà đầu tư thành lập trường tư thục hoạt động không vì lợi nhuận được vinh danh về công lao góp vốn đầu tư thành lập, xây dựng và phát triển trường.
  1. Nhà đầu tư thành lập cơ sở giáo dục tư thục được lựa chọn một trong các phương thức sau đây:
  1. Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp để tổ chức kinh tế thành lập cơ sở giáo dục tư thục theo quy định của Luật này;
  2.  Trực tiếp đầu tư thành lập cơ sở giáo dục tư thục theo quy định của Luật này.”
Ngày 04/6/2019, Chính phủ ban hành Nghị quyết số ^ 35/NQ-CP “Về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019- 2025” (sau đây gọi là Nghị quyết số 35), trong đó có 3 Quan điểm chỉ đạo về xã hội hóa giáo dục:
  1. Các nguồn lực xã hội là rất quan trọng, cần được thu hút để chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng chi phí toàn xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Chính phủ khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, trình độ đào tạo.
  2. Việc huy động các nguồn lực của xã hội cho giáo dục và đào tạo không để thay thế mà là nguồn bổ sung quan trọng cho ngân sách nhà nước, góp phần làm tăng tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục và đào tạo, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước tại các cơ sở công lập, tập trung đầu tư vào những lĩnh vực, địa bàn và đối tượng mà tư nhân không muốn hoặc không có khả năng đầu tư; khuyến khích các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập hợp tác, liên doanh, liên kết với các cơ sở ngoài công lập; chuyển đổi một số đơn vị sự nghiệp công lập sang ngoài công lập ở những nơi có điều kiện phù hợp.
  3. Xã hội hóa giáo dục và đào tạo cần được coi là một chỉ tiêu trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tùy thuộc điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội cụ thể trong từng thời kỳ, cơ quan quản lý giáo dục của địa phương tham mưu xác định các chỉ tiêu xã hội hóa cần đạt được cho địa phương mình, bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập.
Phần nhiệm vụ và giải pháp thực hiện Nghị quyết số 35, Chính phủ quy định:
  1. Hoàn thiện thể chế:
Rà soát hệ thống các văn bản, chính sách về xã hội hóa đã ban hành, hệ thống hóa các quy định về huy động các nguồn lực xã hội cho giáo dục theo từng lĩnh vực và nhóm vấn đề cụ thể, phát hiện những quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn và còn thiếu, đề xuất hướng chỉnh sửa, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ cho phù hợp; kịp thời cập nhật những chủ trương, định hướng mới về xã hội hóa và có liên quan;...
  1. Cải thiện môi trường đầu tư:
  • Rà soát các điều kiện đầu tư, các chính sách thuế, chính sách đất đai trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm các thủ tục không cần thiết, đơn giản hóa quy trình thủ tục cho nhà đầu tư; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nhằm bảo đảm thông tin thông suốt, minh bạch; giải quyết kịp thời những thắc mắc của nhà đầu tư trong quá trình thành lập, hoạt động của các cơ sở giáo dục ngoài công lập.
  •  Bảo đảm đối xử bình đẳng và tạo môi trường cạnh tranh công bằng, minh bạch; không phân biệt cơ sở giáo dục công lập và cơ sở giáo dục ngoài công lập, người học đều được tiếp cận cơ hội giáo dục và hưởng lợi từ các chính sách phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước. Đối với vốn viện trợ ODA: Các cơ sở giáo dục ngoài công lập được tiếp cận, thụ hưởng vốn viện trợ ODA theo quy định của pháp luật liên quan. Đối với vốn vay nước ngoài (vay ODA, vay ưu đãi): các cơ sở giáo dục ngoài công lập không thuộc đối tượng được cấp phát từ nguồn vốn vay. Đối với vốn vay tín dụng trong nước: các cơ sở giáo dục ngoài công lập được tiếp cận, thụ hưởng nguồn vốn tín dụng trong nước ưu đãi (nếu có);
  •  Tạo điều kiện thuận lợi về thị thực, giấy phép lao động để khuyến khích các nhà trí thức, doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam và nước ngoài đóng góp công sức, trí tuệ và tài chính cho phát triển giáo dục và đào tạo.
Như vậy, với Nghị quyết số 35, Chính phủ đã quy định khá rõ quyền lợi và trách nhiệm của các tập thể, cá nhân tham gia phát triển giáo dục, đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để huy động nguồn lực trong và ngoài nước tham gia phát triển GDNN.
Khi nghiên cứu Luật Giáo dục nghề nghiệp số 74/2014/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2014 cho thấy, nội dung trong Luật đã nêu một số chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình đào tạo (Điều 7. Xã hội hóa giáo dục nghề nghiệp). Theo Luật GDNN, các khoản chi cho hoạt động đào tạo nghề nghiệp của doanh nghiệp (DN) được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Gồm các chi phí như xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy móc, thiết bị để dạy nghề; chi phí trả cho người dạy, tài liệu học tập, thiết bị, vật liệu thực hành; chi phí đào tạo của DN cho người lao động được tuyển dụng vào làm việc tại DN; các hoạt động tài trợ phục vụ giảng dạy, học tập, tài trợ học bổng. DN trong lĩnh vực GDNN được áp dụng thuế suất 10%. Miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế trong 5 năm tiếp theo đối với thu nhập DN từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực GDNN (9 năm đối với địa bàn khó khăn). DN được miễn thuế hàng hóa nhập khẩu chuyên dùng phục vụ cho giáo dục và đào tạo trong nước không sản xuất. Ngoài ra, DN còn được thụ hưởng các chính sách khác: giao đất không thu tiền sử dụng đất; cho thuê đất và miễn tiền thuê đất. Với DN nhỏ và vừa, khi cử lao động tham gia khóa đào tạo trình độ sơ cấp hoặc dưới 3 tháng thì được miễn chi phí đào tạo. DN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến được hỗ trợ 50% tổng chi phí của một khóa đào tạo trực tiếp tại DN nhưng không quá một lần/năm.
Đi sâu nghiên cứu quyền và trách nhiệm của DN tham gia đào tạo nghề tại Điều 51 và 52 của Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, cho thấy:
Điều 51. Quyền của doanh nghiệp trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp
  1. Được thành lập cơ sở GDNN để đào tạo nhân lực trực tiếp cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ trong doanh nghiệp và cho xã hội.
  2. Được đăng ký hoạt động GDNN để tổ chức đào tạo trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo thường xuyên theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 40 của Luật này cho người lao động làm việc tại doanh nghiệp và lao động khác; được Nhà nước hỗ trợ kinh phí đào tạo cho người khuyết tật vào học tập và làm việc cho doanh nghiệp.
  3. Được phối hợp với các cơ sở hoạt động GDNN khác để tổ chức đào tạo các trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và các chương trình đào tạo thường xuyên.
  4. Được tham gia xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo; tổ chức giảng dạy, hướng dẫn thực tập và đánh giá kết quả học tập của người học tại cơ sở GDNN.
  5.  Các khoản chi cho hoạt động đào tạo nghề nghiệp của doanh nghiệp được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
Điều 52. Trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp
  1. Cung cấp thông tin về nhu cầu đào tạo, sử dụng lao động của doanh nghiệp theo ngành, nghề và nhu cầu tuyển dụng lao động hằng năm cho cơ quan quản lý nhà nước về GDNN.
  2. Tổ chức đào tạo hoặc đặt hàng với cơ sở GDNN để đào tạo người lao động được tuyển dụng vào làm việc tại doanh nghiệp.
  3. Thực hiện đầy đủ trách nhiệm đã thỏa thuận trong hợp đồng liên kết đào tạo với cơ sở hoạt động GDNN.
  4. Tham gia xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo; tổ chức giảng dạy, hướng dẫn thực tập, đánh giá kết quả học tập của người học tại cơ sở hoạt động GDNN; tiếp nhận người học, nhà giáo đến tham quan, thực hành, thực tập nâng cao kỹ năng nghề thông qua hợp đồng với cơ sở hoạt động GDNN.
  5. Trả tiền lương, tiền công cho người học, nhà giáo trực tiếp hoặc tham gia lao động làm ra sản phẩm hợp quy cách trong thời gian đào tạo, thực hành, thực tập tại doanh nghiệp theo mức do các bên thỏa thuận.
  6. Phối hợp với cơ sở GDNN tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề và đào tạo lại nghề cho người lao động của doanh nghiệp.
  7. Tạo điều kiện cho người lao động của doanh nghiệp vừa làm vừa học để nâng cao trình độ kỹ năng nghề nghiệp theo quy định của pháp luật về lao động.
  8. Chỉ được sử dụng lao động đã qua đào tạo hoặc có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia đối với những nghề trong danh mục do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định.
  9. Chính phủ quy định cụ thể quyền, trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động GDNN.
Với nội dung Điều 51 và Điều 52 của Luật GDNN cho thấy nhưng quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của các DN khi tham gia đào tạo nghề đã được đề cập trong Luật khá đầy đủ, vấn đề là các bộ, ngành có liên quan phải cụ thể hóa bằng những văn bản dưới luật để các địa phương, các tổ chức và cá nhân có trách nhiệm thực hiện.
Về quyền lợi và trách nhiệm của người học: Người học sau đào tạo được làm việc ngay chính tại doanh nghiệp mà mình học tập, được trả lương nếu làm ra sản phẩm, nhưng phải làm việc sau một số năm nhất định mới được xin chuyển sang nơi công tác khác và phải chịu phạt theo quy định của pháp luật nếu “nhảy việc” mà không được sự đồng ý của chủ DN.
Về phía Nhà nước: cần ban hành cơ chế, chính sách tôn trọng và đãi ngộ xứng đáng đối với người lao động có tay nghề cao. Mở rộng các mô hình vừa dạy văn hóa, vừa đào tạo nghề cho học sinh (chú trọng ở bậc THPT) để sau ba năm, học sinh tốt nghiệp vừa có trình độ học vấn hết lớp 12, vừa có một nghề với chuyên môn kỹ thuật phù hợp ở trình độ sơ cấp.
Với nội dung trong các Luật và Nghị quyết của Chính phủ nêu trên cho thấy, việc thể chế hóa chủ trương của Đảng về “xã hội hóa giáo dục”, trong đó có GDNN đã đề cập khá rõ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào quá trình thực hiện xã hội hóa giáo dục. Tuy nhiên, để công tác xã hội hóa giáo dục thu được kết quả tốt hơn nữa cần tiếp tục hoàn thiện chính sách về xã hội hóa giáo dục trong đó có chính sách về xã hội hóa GDNN.
  1. Hoàn thiện chính sách xã hội hóa giáo dục nghề nghiệp
Qua nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật, ý kiến của nhiều nhà khoa học và các chủ doanh nghiệp, có thể đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện chính sách xã hội hóa GDNN.
  1. Tháo gỡ “nút thắt” hiện nay đối với các nhà đầu tư đó là vấn đề quyền sử hữu tài sản và phân chia lợi nhuận của các nhà đầu tư; quyền điều hành nhà trường, nhất là khi thực hiện chủ chương hợp tác công - tư trong lĩnh vực đầu tư cho giáo dục, trong đó vấn đề giải quyết quyền lợi và nghĩa vụ của các nhà đầu tư cho giáo dục sẽ có ảnh hưởng lớn tới công tác GDNN. Vì vậy, khi sửa Luật Giáo dục nghề nghiệp cần hết sức lưu ý tới quyền lợi và nghĩa vụ của các nhà đầu tư trong và ngoài nước phải bảo đảm duy trì và phát triển vốn của các nhà đầu tư trong lĩnh vực giáo dục, làm được như vậy sẽ có tác động rất lớn đến việc thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục.
  2. Rà soát chính sách khuyến khích mở rộng mô hình trường dạy nghề trong doanh nghiệp hoặc cơ sở GDNN gắn với doanh nghiệp, gắn với các khu công nghiệp, khu chế xuất, vùng kinh tế động lực.
Đây là mô hình GDNN thiết thực, hiệu quả trong việc cung cấp nhân lực theo yêu cầu của doanh nghiệp, đồng thời rất có tác dụng hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau THCS và sau THPT.
  1. Đẩy mạnh việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn công tác xã hội hóa giáo dục (XHHGD). Bộ Lao động, Thương binh và xã hội chủ trì nghiên cứu về XHHGD để tham mưu với Chính phủ ban hành cơ chế chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia phát triển giáo dục.
Trên nền tảng phát triển kinh tế, các viện nghiên của về giáo dục tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống nhằm làm rõ đặc điểm và nội hàm XHHGD trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó xác định được những yếu tố ảnh hưởng tới công tác GDNN mà hoàn thiện chính sách XHHGD thúc đẩy công tác GDNN phát triển đáp ứng yêu cầu xã hội.
  1. Khuyến khích các nhà đầu tư trong nước thành lập trường tư thục ở tất cả các ngành học, bậc học và trình độ đào tạo; cho phép các cơ sở giáo dục tư thục thuê giáo viên người nước ngoài giảng dạy một số chương trình quốc tế.
  2. Nhà nước có chính sách hỗ trợ chuyển đổi một số cơ sở GDNN từ công lập sang tư thục. Thí điểm việc Nhà nước cho thuê cơ sở vật chất đối vối một số cơ sở GDNN có khả năng cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao. Thí điểm cổ phần hóa một số cơ sở GDNN và cho phép cán bộ, giáo viên đóng góp cổ phần. Các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập đều bình đẳng khi tham gia đào tạo nguồn nhân lực và hưởng các hỗ trợ của ngân sách nhà nước. Có chính sách giải quyết các vấn đề phát sinh khi thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về sắp xếp các cơ sở đào tạo công lập và mở rộng các trường đào tạo ngoài công lập có chất lượng, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho lao động qua đào tạo, đồng thời không để xảy ra bất ổn xã hội trong quá trình sắp xếp hệ thống giáo dục.
  3. Cho phép các tổ chức xã hội nghề nghiệp thành lập cơ quan kiểm định chất lượng độc lập, thực hiện nhiệm vụ đánh giá, sát hạch chất lượng học sinh, sinh viên trong các cơ sở GDNN sau cuối mỗi năm học, khóa học. Kết quả kiểm định chất lượng đào tạo được công bố trên website của Bộ Lao động, Thương binh và xã hội.
Việc cho phép thành lập các cơ sở kiểm định chất lượng được thực hiện cả với các đơn vị công lập, nhưng khuyến khích các tổ chức hội nghề nghiệp thanh lập cơ quan kiểm định độc lập và quy định tất cả các cơ quan kiểm định chất lượng phải tự chủ hoàn toàn để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, hạn chế tiêu cực. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thực hiện công tác quản lý nhà nước, thường xuyên kiểm tra, đánh giá và kiểm định chất lượng của các cơ quan kiểm định chất lượng.
  1. Chính phủ quy định người lao động qua đào tạo ở tất cả các ngành, nghề khi tham gia vào thị trường lao động phải có giấy phép hành nghề do các quan kiểm định chất lượng được nhà nước cho phép cấp; quy định với tất cả các cơ quan, đơn vị, cơ sở khi tuyển dụng lao động có giấy phép hành nghề phải sử dụng đúng những quy định trong giấy phép và có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền phạt, hoặc thu giấy phép hoạt động của cơ sở kiểm định chất lượng nếu phát hiện thấy việc xác nhận không đúng với năng lực của người lao động được ghi trong giấy phép, hoặc có tiêu cực trong quá trình thực hiện kiểm định chất lượng.
Việc Chính phủ quy định bắt buộc người lao động qua đào tạo phải có giấy phép hành nghề, nhằm kiểm định chất lượng của các cơ sở đào tạo, đồng thời bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động khi tham gia thị trường lao động. Quyền sử dụng lao động thuộc về các cơ sở sử dụng lao động, nếu cơ quan kiểm định chất lượng mà cơ sở sử dụng lao động không tuyển những lao động có giấy phép hành nghề do cơ quan kiểm định nào đó cấp, chứng tỏ cơ quan kiểm định chất lượng đó không đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, mà cao hơn nữa là nếu cơ sở sử dụng lao động tuyển lao động có giấy phép hành nghề mà phát hiện lao động không có năng lực đúng như ghi trong giấy phép hành nghề thì có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền phạt, hoặc thu giấy phép của cơ quan kiểm định chất lượng đó. Như vậy cơ quan kiểm định chất lượng cũng phải thực hiện rất nghiêm túc việc kiểm định và cấp giấy phép hành nghề.
Kết quả của việc thay đổi cách đánh giá, kiểm định chất lượng học sinh, sinh viên và cấp giấy phép hành nghề cho người lao động qua đào tạo sẽ có tác động tích đến việc dạy và học trong các nhà trường. Nếu các cơ sở giáo dục mà cho điểm cao khi kiểm định chất lượng cho kết quả thấp thì chứng tỏ cơ sở giáo dục đó không trung thực; hoặc khi kiểm định chất lượng mà số lượng học sinh, sinh viên được cấp giấy phép hành nghề ít chứng tỏ cơ sở đào tạo đó chất lượng thấp, hậu quả sẽ dẫn tới tuyển sinh được ít, trường sẽ không thể phát triển, thậm chí phải đóng cửa; ngược lại, những cơ sở đào tạo mà tỷ lệ người học qua kiểm định có giấy phép hành nghề đạt cao thì cơ sở đó chất lượng đào tạo tốt, sẽ tuyển sinh được nhiều, nhà trường sẽ phát triển.
  1. Chính phủ cần hướng dẫn để cụ thể hóa chính sách ưu đãi về giao đất hoặc cho thuê đất; ưu đãi tín dụng cho các cơ sở GDNN, nhà đầu tư chỉ thực hiện đầy đủ các quy định của luật và không có những chi phí tiêu cực.
Thứ nhất, việc giao đất sạch cho các cơ sở giáo dục là hết sức quan trọng vì nếu để các nhà đầu tư tự giải phòng mặt bằng thì phát sinh ra rất nhiều tiêu cực, chi phí rất cao và nhiều trường hợp giao dịch không thành công. Thứ hai, nhà nước không nên tính thuế đối với đất sử dụng vào mục đích xây trường học, nhưng cần tính giá trị của đất, coi đó là nguồn đóng góp của nhà nước vào tài sản chung của nhà trường để hạch toán và sử dụng lợi nhuận thu được vào việc thực hiện chính sách xã hội. Thứ ba, nhà nước có chính cách cho vay ưu đãi tín dụng đối với các cơ sở giáo dục tư thục chứng minh được phương án trả nợ tốt và thực sự có hữu ích cho xã hội.
  1. Chính phủ cần ban hành chính sách bình đẳng về chế độ chính sách đối với cán bộ, giáo viên công lập và ngoài công lập trong thi đua khen thưởng, xét danh hiệu nhà nước, đào tạo bồi dưỡng, tiếp nhận và thuyên chuyển cán bộ từ khu vực công sang khu vực tư và ngược lại.
Thực hiện chính này sẽ từng bước xóa nhòa danh giới biên chế và không biên chế, khuyến khích các cơ sở GDNN cạnh tranh lành mạnh, thu hút người giỏi về công tác.
Căn cứ vào Luật Giáo dục và tới đây là Luật Giáo dục nghề nghiệp sửa đổi, Chính phủ yêu cầu các bộ ngành liên quan sớm rà soát hệ thống các văn bản, chính sách về xã hội hóa đã ban hành, hệ thống hóa các quy định về huy động các nguồn lực xã hội cho giáo dục theo từng lĩnh vực và nhóm vấn đề cụ thể; phát hiện những quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn và còn thiếu; đề xuất hướng chỉnh sửa, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ cho phù hợp với định hướng của Đảng và những quy định mới của pháp luật, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa các nhà đầu tư trong nước cũng như nhà đầu tư nước ngoài và bảo đảm quyền và lợi ích của các nhà đầu tư.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
  1.  Nghị quyết số 29- NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
  2.  Luật Giáo dục: Luật số 43/2019/QH14, ngày 14/6/2019, Quốc hội khoa IV.
  3. Nghị quyết số 35/NQ-CF ngày 04/6/2019 của Chính phủ “Về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2025”.
  4.  Luật Lao động: Luật số: 10/2012/QH13 ngày 18/6/2012 của Quốc hội khóa XIII.
 
  1.  Luật Giáo dục nghề nghiệp: Luật số 74/2014/QH13 ngày 27/11/2014 của Quốc hội khóa XIII.
  2.  Nghị định số 118/2015/NĐ-CF ngày 12/11/2015 của Chính phủ “Quy định chi tiết và hướng dân thi hành một số điều của Luật Đầu tư”.
  3. Nghị định 86/2018/NĐ-CF ngày 6/6/2018 của Chính phủ “Quy định về hợp tác đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục”.
  4.  Kết luận số 51- KL/TW ngày^ 30/5/2019 của Ban Bí thư Trung Đảng khóa XII “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ườn 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

Tác giả: Nguyễn Đắc Hưng - Ban Tuyên giáo Trung ương

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Xếp hạng: 0 - 0 phiếu bầu

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Danh ngôn

Đối với người giáo viên, cần phải có kiến thức, có hiểu biết sư phạm về quy luật xã hội, có khả năng dùng lời nói để tác động đến tâm hồn học sinh. Có kỹ năng đặc sắc nhìn nhận con người và cảm thấy những rung động tinh tế nhất của trái tim con người

Xukhomlinxki

Văn bản

1978/QĐ-BLĐTBXH

Về việc ban hành các chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành giáo dục nghề nghiệp

12/2019/TT-BLĐTBXH

Hướng dẫn việc chuyển xếp lương chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành giáo dục nghề nghiệp

454/TCGDNN-KĐCL

V/v hướng dẫn đánh giá tiêu chuẩn KĐCL chương trình đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng

453/TCGDNN-KĐCL

V/v hướng dẫn đánh giá tiêu chuẩn kiểm định cơ sở giáo dục nghề nghiệp đối với trường trung cấp, trường cao đẳng

452/TCGDNN-KĐCL

V/v hướng dẫn đánh giá tiêu chuẩn kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục nghề nghiệp đối với trung tâm giáo dục nghề nghiệp

Tìm kiếm

Khảo sát nhanh

Theo bạn để nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần tập trung vào nội dung nào sau đây?

Thành viên

Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site

Hỏi - Đáp

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây